Page 237 - HSCC2024_Book_RV5 020424
P. 237
ThSĐD. ĐINH THỊ THANH HUỆ
THỰC TRẠNG SẢNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN
Ở BỆNH NHÂN THỞ MÁY
Bệnh nhân sảng có thời gian nằm viện lâu hơn, tỷ lệ tử vong sau 6 tháng cao hơn bệnh nhân không sảng. Sảng là một
biến chứng thường xuyên xảy ra, có thể lên đến 80%, ở nhóm bệnh nhân phải thở máy
Để bổ sung vào nguồn dữ liệu về sảng ở Việt Nam, chúng tôi thực hiện nghiên với 2 mục tiêu: mô tả thực trạng sảng
ở bệnh nhân thở máy và tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến tình trạng sảng ở nhóm bệnh nhân này
Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang 34/84 bệnh nhân thở máy thỏa mãn điều kiện được đưa vào nghiên cứu trong 6
tháng (từ 03 đến 08/2022) tại Khoa Cấp cứu và hồi sức tích cực - Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ sảng trong nghiên cứu là rất cao (61,76%), chủ yếu là sảng giảm động (66,67%) và
sảng tăng động là (33,33%), trung bình thời gian từ khi vào viện tới khi bị sảng là 12,19 ± 12,76 ngày, thời gian từ khi
vào ICU tới khi bị sảng 6,14 ± 6,41 ngày, thời gian bệnh nhân sảng nằm tại ICU trung bình khá cao (13,88 ± 8,42 ngày).
Bệnh lý chính của các bệnh nhân có sảng hay gặp nhất là nhiễm trùng (42,86%). Đặc điểm nhân khẩu học, tình trạng
bệnh lý không liên quan tới sảng. Điểm SOFA, số ngày sử dụng thuốc an thần có liên quan tới sảng với p < 0,05 và tỷ
suất chênh lần lượt là OR = 1,42 (95%CI: 1,03 - 1,95) và OR = 1,56 (95%CI: 1,09 - 2,24)
Tỷ lệ bệnh nhân thở máy bị sảng chiếm tỷ lệ cao đặc biệt ở những bệnh nhân sử dụng thuốc an thần dài ngày, do đó
cần đánh giá và theo dõi chặt tình trạng sảng ở những bệnh nhân này. Đặc biệt việc quản lý đau không tốt và rối loạn
chu kỳ ngủ thức của bệnh nhân cũng làm tăng tỷ lệ mắc sảng ở bệnh nhân ICU. Ngoài ra, những bệnh nhân bị sảng cần
phải theo dõi và đánh giá điểm SOFA của bệnh nhân để có can thiệp và xử trí kịp thời đảm bảo an toàn cho bệnh nhân
BS. LÊ ĐỨC GIANG
TIẾP CẬN BỆNH NHÂN CHÓNG MẶT CẤP TÍNH,
DƯỚI GÓC NHÌN CỦA BÁC SĨ CẤP CỨU
Chóng mặt là triệu chứng thường xuyên gặp tại khoa cấp cứu. Có nhiều nguyên nhân khác nhau gây chóng mặt, trong
đó chủ yếu là do các nguyên nhân tiền đình ngoại vi với tỷ lệ 40%, các nguyên nhân chóng mặt trung ương là 10%
và tỷ lệ này sẽ tăng dần theo độ tuổi của bệnh nhân. Các phương pháp chẩn đoán hình ảnh MRI, CT được coi là tiêu
chuẩn vàng giúp bác sĩ đánh giá rõ ràng các nguyên nhân chóng mặt trung ương. Tại khoa cấp cứu, một vấn đề lớn
được đặt ra: Làm thế nào để các bác sĩ có thể phân biệt được giữa các nguyên nhân ngoại vi và các nguyên nhân trung
ương, bên cạnh đó là khi nào chỉ định chụp MRI hoặc CT. Bài trình bày này sẽ cập nhật các khuyến cáo mới trong việc
tiếp cận bệnh nhân chóng mặt, trong đó bắt đầu bằng việc đánh giá thời gian và các yếu tố gây tăng tình trạng chóng
mặt thay vì tính chất cơn chóng mặt, cùng với đó là việc sử dụng các kỹ thuật, nghiệm pháp đánh giá như: HINTS,
Dix-Hallpike với độ nhạy và độ đặc hiệu cao, giúp bác sĩ cấp cứu đưa ra chỉ định hợp lý thay vì sử dụng các phương
pháp chẩn đoán hình ảnh một cách thường quy
SỐC - SEPSIS 237